Phạm vi địa lý và thời gian phổ biến của loại vũ khí này chứng tỏ hiệu quả của nó. Ở Cận Đông, vùng Aegean, và châu Âu từ Ý và Balkans đến Anh và Scandinavia, kiếm Naue Type II vẫn là tiêu chuẩn cho đến ít nhất là thế kỷ thứ bảy.
Từ Chiến Xa đến Bộ Binh
Giữa 1700 và 1600 TCN, sự cơ động của chiến xa đã cách mạng hóa chiến tranh ở Đông Địa Trung Hải. Trước sự thay đổi này, các quân đội trong khu vực chủ yếu dựa vào những người lính giáo mặc giáp nhẹ (hoặc không giáp) chiến đấu trong đội hình sát cánh, được hỗ trợ bởi cung thủ trang bị cung ngắn tầm bắn gần. Tốc độ của chiến xa, kết hợp với cung hỗn hợp tầm xa, đã mang lại lợi thế quyết định cho quân lính chiến xa trước đội hình bộ binh dày đặc.
Tuy nhiên, vào cuối thời kỳ đồ đồng, những kẻ xâm lược man rợ (thường được gọi là “Người Biển”) đã tấn công các thành phố và vương quốc dựa trên cung điện ở Hy Lạp và Cận Đông giữa năm 1225 và 1175 TCN, mang đến một thời kỳ đen tối kéo dài cho đến khi văn hóa Hy Lạp cổ điển trỗi dậy (vẫn còn lưu giữ ký ức về thời đại của “người hủy diệt thành phố” trong các câu chuyện của Homer về Iliad và Odyssey). Rõ ràng, những kẻ xâm lược này ưa chuộng chiến thuật đánh lẻ mà các cung thủ chiến xa không chuẩn bị sẵn sàng để đối phó, như được chứng minh bằng sự từ bỏ chiến xa nói chung để chuyển sang các loại bộ binh mới được trang bị vũ khí và áo giáp mới.
Vũ khí nổi bật nhất trong số này là một loại kiếm bằng đồng. Ngày nay, nó được các nhà sử học gọi là kiếm Naue Type II.
Griffzungenschwert
Tên của thanh kiếm này xuất phát từ nhà sử học người Đức, Tiến sĩ Julius Naue, người đã phân loại vũ khí này trong tác phẩm của ông *Die vorromischen Schwerter aus Kupfer, Bronze und Eisen* (Những Thanh Kiếm Tiền La Mã Bằng Đồng, Đồng Thau và Sắt), Munich, 1903. Tên gọi khác, “Griffzungenschwert”, dịch là “kiếm lưỡi cán” và xuất phát từ tính năng cách mạng của Naue Type II.
Những vũ khí có lưỡi trước đây gặp phải vấn đề khi lưỡi kiếm được làm riêng biệt với chuôi kiếm, phải gắn vào nhau bằng đinh tán. Điều này gây ra vấn đề khi vũ khí được sử dụng để chém hoặc đỡ đòn vì mối nối giữa lưỡi và chuôi phải chịu lực, thường làm đinh tán và/hoặc lỗ gắn của chúng bị hỏng.
Tuy nhiên, trong Naue Type II, toàn bộ vũ khí được làm trong một lần đúc đồng duy nhất, trong đó có các viền nổi lên ở cạnh của cán (hay “lưỡi”) để lắp các tay cầm bằng gỗ hoặc xương. Sự đổi mới này đã làm cho việc phát triển thanh kiếm chém và đâm hiệu quả đầu tiên trên thế giới trở nên khả thi.
Xuất xứ
Từ các bằng chứng khảo cổ, có vẻ như Griffzungenschwert đã phát triển ở các vùng “man rợ” của Áo và Hungary, với một số biến thể có từ khoảng 1450 TCN. Tuy nhiên, chỉ vào khoảng năm 1200, kiếm Naue Type II mới làm khuynh đảo thế giới văn minh. Không phải ngẫu nhiên mà đây cũng là thời điểm các thành phố trên khắp Hy Lạp và Cận Đông bị tàn phá; một thời kỳ chứng kiến sự sụp đổ của Đế chế Hittite và sự suy tàn cuối cùng của Ai Cập. Hồ sơ khảo cổ cho thấy các thanh kiếm Naue Type II bắt đầu được những người bảo vệ những vùng đất bị bao vây này chấp nhận khoảng năm 1200. Mặc dù không có bằng chứng chắc chắn, nhưng logic cho thấy thanh kiếm này, vì lý do cần thiết, đã được sao chép bởi cư dân thành phố từ những vũ khí mà những kẻ xâm lược mang theo để phá hủy họ.
Thú vị thay, một trong những mẫu kiếm Naue Type II được tìm thấy sớm nhất trong khu vực Địa Trung Hải là một thanh kiếm Ai Cập được khắc tên Seti II (khoảng 1202-1196 TCN). Trong nghiên cứu của mình về chiến tranh vào cuối thời kỳ đồ đồng, Robert Drews đã tổng hợp các con số sau đây cho các phát hiện về kiếm đồng Naue Type II:
- Cyprus: 9
- Cận Đông: 8
- Hy Lạp: 29
- Ý: 100
- Nam Tư: 130
Mặc dù những con số này rõ ràng chỉ ra rằng thanh kiếm phổ biến hơn ở Nam Âu so với Cận Đông (dù cần lưu ý rằng sự khác biệt trong phong tục tang lễ và cơ hội ngẫu nhiên trong việc bảo quản và phát hiện luôn ảnh hưởng đến hồ sơ khảo cổ), Drews cũng lưu ý rằng năm thanh kiếm khác có hình dáng lưỡi kiếm tương tự như Naue Type II đã được tìm thấy ở thành phố Ugarit của Syria. Những thanh kiếm này có cán khác với griffzunge của Naue Type II thật. Khi một trong năm thanh kiếm này được khắc tên Pharaoh Merneptah của Ai Cập (khoảng 1212-1203 TCN), có thể rằng những thanh kiếm này đại diện cho các loại vũ khí thử nghiệm đang được chế tạo để đối phó với Griffzungenschwerter mà những kẻ xâm lược (từ Nam Âu?) đã mang theo khi họ bắt đầu các cuộc tấn công vào cuối thế kỷ 13, đặc biệt là khi cán của “kiếm Merneptah” quá mỏng đến mức không sử dụng được. Tương tự, ở Hy Lạp, bốn ví dụ khác về loại kiếm chém và đâm bằng đồng “thử nghiệm” đã được tìm thấy, có thể cho thấy rằng người Mycenae cũng đã chấp nhận vũ khí này dưới áp lực từ những kẻ tấn công từ vùng Balkan.
Ở mức độ lớn hoặc nhỏ, Naue Type II và các biến thể của nó đã được các quốc gia riêng lẻ ở Đông Địa Trung Hải chấp nhận vào đầu thế kỷ 12 TCN. Như có thể thấy từ hai ví dụ có khắc chữ, quân đội Ai Cập phải rất quan tâm đến việc có được những thanh kiếm mới, một sự đổi mới bất ngờ từ một nền văn hóa có thể nói là bảo thủ nhất từng tồn tại. Hình minh họa dưới đây cho thấy một số kiểu chuôi kiếm Griffzungenschwerter khác nhau từ các khu vực khác nhau:
Từ Đồng đến Sắt
Đến năm 900 TCN, chất liệu của Naue Type II đã chuyển sang sắt nhưng hình dạng vẫn giữ nguyên. Thanh kiếm tiếp tục được sử dụng cho đến sau năm 700 TCN khi sự trỗi dậy của chiến thuật hoplite sát cánh của Hy Lạp, mà nền tảng là những người lính giáo bọc giáp nặng, đã đẩy kiếm xuống vai trò phụ. Những người lính hoplite thích sử dụng kiếm lưỡi lá, hậu duệ trực tiếp của Naue Type II, là thanh kiếm phổ biến nhất ở thế giới Địa Trung Hải cho đến khi “kiếm Tây Ban Nha” với cán nhọn được La Mã chấp nhận vào khoảng năm 150 TCN.
Mặc dù câu chuyện chính xác có thể đã mất đối với chúng ta, nhưng rõ ràng rằng Naue Type II đã đóng một vai trò quan trọng trong sự sụp đổ của nền văn hóa quốc tế đa dạng của Địa Trung Hải cuối thời kỳ đồ đồng, một hành động đã mở đường cho sự trỗi dậy của Hy Lạp và La Mã cổ đại.
“Từ Ukraine và Romania ở phía đông đến Ireland và Tây Ban Nha ở phía tây, và từ Thụy Điển ở phía bắc đến Ý ở phía nam, mọi người đều sử dụng một dạng kiếm lưỡi cán. Và điều thú vị là ngay cả Hy Lạp thời kỳ cuối Mycenae cũng bị cuốn theo xu hướng này. Sau năm 1200 TCN, kiếm lưỡi cán loại “châu Âu” đã trở thành thanh kiếm dài tiêu chuẩn ở Hy Lạp, mặc dù những thanh kiếm ngắn địa phương vẫn được sản xuất. Kiếm lưỡi cán cũng xuất hiện ở Cyprus, Ai Cập và Ugarit ở Syria.”